Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2012

Võ cổ truyền Việt Nam



Võ cổ truyền Việt Nam dùng để chỉ những hệ phái võ thuật lưu truyền trong suốt trường kỳ lịch sử của dân tộc Việt Nam, được người Việt sáng tạo và bồi đắp qua nhiều thế hệ, hình thành nên kho tàng những đòn, thế, bài quyền, bài binh khí, kỹ thuật chiến đấu đặc thù. Với những kỹ pháp võ thuật này, người Việt Nam đã dựng nước, mở mang và bảo vệ đất nước suốt trong quá trình lịch sử Việt Nam.
Về danh xưng “Võ cổ truyền Việt Nam”, theo võ sư Võ Kiểu nguyên tổng thư ký liên đoàn Quyền thuật miền Trung trước 1975: “Võ ta đã gắn bó với dân tộc ta từ hàng ngàn năm qua, nó mang một vẻ đẹp không môn phái nào trên thế giới có được, nó không chỉ là một môn võ phòng thân, chống lại bao giặc thù hàng ngàn năm qua mà còn là một lối sống, một nhân sinh quan, một tư tưởng vô cùng quan trọng trong hệ thống tư tưởng Việt Nam. Đánh mất tên gọi “võ ta”, là chúng ta đã vô tình đánh mất luôn cả cái hệ tư tưởng Việt Nam quý giá ẩn chứa trong môn võ vô cùng đẹp này!” Võ sư Võ Kiểu còn cho rằng việc thay thế danh xưng “Võ Ta” bằng tên gọi “võ cổ truyền Việt Nam”có thể “vô tình đánh mất luôn cả hệ tư tưởng Việt Nam quý giá ẩn chứa” trong môn võ đẹp này.

Lịch sử

Tại Việt Nam, thời Pháp mới chiếm Việt Nam, các hệ phái võ thuật cổ truyền bị thực dân Pháp cấm lưu hành vì những người đứng đầu các phong trào khởi nghĩa chống Pháp đều là người giỏi võ Việt Nam. Khoảng năm 1925, võ cổ truyền Việt Nam được khôi phục song song với các môn võ ngoại quốc khác được đưa vào Việt Nam, như: Quyền Anh (Boxing, Boxe), Thiếu Lâm (Shaolin)…
Trong giai đoạn này, nhiều võ sư huyền thoại đã để lại danh tiếng: 3 võ sư được mệnh danh là “Tam Nhựt” gồm: Hàn Bái, Bá Cát, Bảy Mùa vì có công lớn trong việc khôi phục truyền thống võ Việt Nam trong thời gian này. Mãi đến khi Pháp rời khỏi Việt Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm ở miến Nam Việt Nam đã tiếp tục duy trì sự phục hồi võ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam. Ba võ sư có công lớn trong giai đoạn này là: Trương Thanh Đăng, sư tổ của võ phái Bình Định Sa Long Cương, Quách Văn Kế và Vũ Bá Oai (được mệnh danh là “Tam Nguyệt”) tiếp nối việc khôi phục và phát triển võ Việt Nam.
Tuy nhiên, tại miền Nam Việt Nam, từ năm 1960 đến năm 1963, Ngô Đình Diệm lại tiếp tục cấm các đoàn võ thuật phát triển (trong đó có võ Việt Nam), vì năm 1960, trong lực lượng tham gia đảo chính Ngô Đình Diệm thất bại có đoàn võ sĩ Nhu đạo do võ sư Phạm Lợi chỉ huy. Năm 1964, võ thuật được tiếp tục hoạt động, trong đó có võ Việt Nam. Trong giai đoạn này, võ thuật Việt Nam đã lớn mạnh, sánh vai ngang hàng với võ thuật các nước trong khu vực, như: Thái Lan, Indonesia, Hồng Kông, Đài Loan, Lào, Campuchia… Nhiều võ sĩ Việt Nam đã chiến thắng vẻ vang trước nhà vô địch của các nước bạn trong trong khu vực. Bốn võ sư đã có công đào tạo nhiều võ sĩ ưu tú cho làng quyền thuật Việt Nam, nhất là đào tạo nhiều võ sĩ giỏi đại diện cho màu cờ sắc áo Việt Nam chiến thắng vẻ vang nhiều nhà vô địch của các nước bạn, chính là: Từ Thiện Hồ Văn Lành, Trần Xil, Xuân Bình và Lý Huỳnh. Bốn võ sư này đã được Tổng Nha Thanh Niên trao tặng Bằng Khen về các thành tích vẻ vang cho đất nước, và từ đó, giới võ thuật gọi bốn võ sư này là “Tứ Tú” (bốn ngôi sao sáng), nối tiếp “Tam Nhựt” (ba mặt trời) và “Tam Nguyệt” (ba mặt trăng) trong việc khôi phục và phát huy truyền thống võ thuật Việt Nam.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, do tình hình trật tự an ninh còn hỗn loạn, võ thuật Việt Nam tạm ngừng phát triển một thời gian. Năm 1979, nhân sự kiện quân đội Trung Quốc và quân đội Khmer đỏ tấn công Việt Nam, nhà nước Việt Nam đã cho khôi phục hoạt động võ thuật, trong đó có võ thuật cổ truyền Việt Nam, để tập hợp thanh niên rèn luyện tinh thần bất khuất sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Sau đó, các Liên đoàn võ thuật hình thành để quản lý phong trào võ thuật, trong đó có Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam hình thành năm 1991. Tuy nhiên, do nhiều lý do, từ đó cho đến năm 2007, võ thuật Việt Nam vẫn chưa được nhà nước Việt Nam quan tâm phát triển như những môn võ thuật có thi đấu quốc tế như: Taekwondo, Judo, Karatedo, Wushu, Pencak silat, Boxing, Vovinam…

Đặc điểm

Võ thuật cổ truyền Việt Nam thể hiện một số đặc điểm:
Thường là võ trận, sử dụng trong trận mạc, chiến đấu chống ngoại xâm, chinh phục thiên nhiên hoang dã, chống trả và săn bắt hổ, lợn rừng, bảo vệ nhà cửa, làng xóm, chống trộm cướp.
Thích hợp với nhiều loại địa hình.
Thực dụng, linh hoạt.
Dĩ công vi thủ, dĩ nhu chế cương, dĩ đoản chế trường.
Các bài quyền đều có lời thiệu bằng thơ, phú
Muốn luyện thành thạo phải luyện với thiên nhiên nơi có khí trong lành, để tăng khí công trong người, khi đó ra đòn sẽ mạnh hơn.

Một số hệ phái võ thuật cổ truyền Việt Nam

Miền Bắc
Hoàng quyền
Nhất Nam (võ Hét)
Võ Vật Liễu Đôi
Thăng Long Võ Đạo
Nam Hồng Sơn
Thanh Phong Võ Đạo

Miền Trung
Tây Sơn Võ Đạo
Bình Thái Đạo
Áo Vải

Miền Nam
Bạch Hổ Võ Phái
Tân Khánh Bà Trà
Kim Kê
Thanh Long Võ Đạo
Tiên Long Quyền Đạo [1]
Bình Định Sa Long Cương
Trúc Lâm Thái Hư
Việt Đạo Quán
Tây Sơn Bình Định
Hóa Quyền Đạo [2]
Thiếu Lâm Nam - Bắc Phái

Hải ngoại
Sơn Long Quyền Thuật
Võ Thuật Văn Võ Đạo
Phượng Long Võ Đạo
Nam Hổ Quyền
Hoa Long Võ Đạo
Tinh Võ Nam Hải
Võ Khí Thuật
Thiếu Hổ
Văn Long Võ Đường
Minh Tâm Võ Đạo
Trường Bạch Long
Võ Kinh Vạn Nam Phái
Thủy Pháp
Cây Lau Võ Đường
Minh Long Tây Sơn Võ Đạo [3]
Việt Đạo Quán Thế Giới [4]
Qwankido (Quán Khí Đạo)
Việt Vũ Đạo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét